Hướng dẫn Chuyển bài thơ “Bếp lửa” thành câu chuyện lớp 9 mà Tophaynhat.com mang đến cho các em dưới đây chính là một nguồn tri thức vô cùng bổ ích. Các em cùng theo dõi để học tập cách liên kết, cách dùng câu từ trong bài văn để giúp cho bài văn của các em trở nên hay và sáng tạo.
Chuyển bài thơ “Bếp lửa” thành câu chuyện cũng được đánh giá chính là một trong những đề bài hay và hấp dẫn nhất. Bài thơ “Bếp lửa” là một sáng tác của Bằng Việt nói lên tình yêu thương giữa người bà và người cháu. Để có thể làm được đề bài này các em phải hiểu được rõ câu chuyện mà tác giả muốn nói. Hãy cùng tham khảo các bài văn mẫu dưới đây.
Nội dung bài viết
- 1 Chuyển bài thơ “Bếp lửa” thành câu chuyện – Bài làm 1
- 2 Chuyển bài thơ “Bếp lửa” thành câu chuyện – Bài làm 2
- 3 Chuyển bài thơ “Bếp lửa” thành câu chuyện – Bài làm 3
- 4 Chuyển bài thơ “Bếp lửa” thành câu chuyện – Bài làm 4
- 5 Chuyển bài thơ “Bếp lửa” thành câu chuyện – Bài làm 5
- 6 Chuyển bài thơ “Bếp lửa” thành câu chuyện – Bài làm 6
- 7 Chuyển bài thơ “Bếp lửa” thành câu chuyện – Bài làm 7
- 8 Chuyển bài thơ “Bếp lửa” thành câu chuyện – Bài làm 8
- 9 Chuyển bài thơ “Bếp lửa” thành câu chuyện – Bài làm 9
- 10 Chuyển bài thơ “Bếp lửa” thành câu chuyện – Bài làm 10
Chuyển bài thơ “Bếp lửa” thành câu chuyện – Bài làm 1
Thực sự thì sao mà có thể quên được vào mùa đông ở Liên Xô lạnh cắt da cắt thịt, nhà nào cũng giữ cho lò sưởi nhà mình luôn nóng. Thế rồi hình ảnh những làn khói từ các ống trên mái nhà liên tục bây lên quyện vào mây trời trông mới thật thanh bình biết bao nhiêu. Khi đang giấu mình trong chiếc áo khoác dày sụ từ trường về nhà khi trời đã chập tối, tôi lúc đó ngước nhìn lên bầu trời và cảm nhận thấy hình ảnh khói như thật quen thuộc với tuổi thơ của tôi. Hình ảnh khói như còn gắn liền với ký ức tuổi thơ, gắn liền với hình ảnh của người bà thân thiết mà suốt cuộc đời này tôi sẽ không bao giờ có thể quên được.
Thấm thoắt cũng đã mấy năm tôi không về lại Việt Nam nơi tổ quốc thân thương mà nình sinh ra và lớn lên nhưng không ngày nào tôi nguôi suy nghĩ về quê nhà. Ngày nào tôi cũng giành thời gian vào việc tìm hiểu thông tin về cuộc kháng chiến trường kì của dân tộc. Thực sự không chỉ vì thói quen khi nhớ nhà mà đó còn là sự không yên lòng cho những người thân yêu của tôi tại Việt Nam. Tôi cũng tự hỏi rằng không biết bà tôi giờ ra sao… Tôi sinh ra trong hoàn cảnh đất nước trong cuộc chiến bảo vệ độc lập gian nan và máu lửa. Cũng chính vì điều này mà ngay cả bản thân tôi cũng đã nhanh chóng sớm chứng kiến đủ mọi khó khăn. Tôi nhớ khi tôi lên bốn tuổi, khi đã có kí ức và ý thức về mọi thứ, ý thức sâu sắc nhất đó là về mùi khói bếp của bà. Đó cũng chính là những năm đói kém, mất mùa, dân ta một cổ ba tròng bị giày xéo thật thê thảm dưới gót giày bọn cướp nước. Hình ảnh cha tôi cũng khiến tôi không thể nào nguôi ngoai, cha lúc ấy là phu xe, con ngựa gầy ngày ngày theo cha ra thị trấn rồi lại quay về. Lần nào nhìn cha tôi cũng nhận thấy được bộ dạng của ông như cứ thất thiểu gầy yếu vì không có gì ăn trong nhiều ngày. Khi mà cha không có khách đi xe thì nhà chắc túng thiếu lắm, ấy vậy mà trong kí ức của tôi thì bếp lửa của bà chưa lúc nào tắt cả, chính bản thân tôi cũng chưa phải đói rết ngày nào nhờ sự yêu thương của cả nhà đặc biệt là người bà tảo tần. Khi lớn lên tôi mới hiểu đó là biết bao công sức tần tảo hôm sớm, bà cũng là người hi sinh, chắt chiu của cha mẹ, nhất là của bà để giữ sự ấm nóng cho bếp lửa. Bà luôn giữ lấy sự sống cho gia đình cho dù khó khăn như nào cũng nhất quyết phải có đủ cơm no ấm áo cho đứa cháu trai. Chỉ cần nghĩ đến những ký ức đó thôi thì sống mũi tôi bất giác cay lên và một cảm xúc như khó tả cứ trực trào trong khóe mắt đã nhòe lệ.
Khi tôi lớn hơn vài tuổi cũng đã hiểu chuyện hơn, cũng chính đó là lúc cuộc kháng chiến của dân tộc đi vào gian nan nhất, khi đó thì cha mẹ vào chiến trường, để lại tôi cho bà nuôi dạy. Trong những năm tháng ấy tiếng chim tu hú luôn ám ảnh tâm thức tôi mà không thể nào có thể quên được. Tiếng chim tu hú nó xuất hiện mọi lúc mọi nơi làm cho con người ta não lòng, tôi chợt nhớ cha, nhớ mẹ biết mấy. Cũng vào khi ấy ở làng chưa có trường, bà là người dạy tôi đọc sách viết chữ, dạy tôi nhóm lửa, làm mọi thứ, bảo ban tôi từng li từng tí một,… Bà tôi cũng còn hay kể chuyện ngày xưa khi gia đình còn ở Huế nữa. Mặt dù chính tôi còn chưa biết Huế ra sao nhưng nó hiện lên trong lời kể của bà thật đẹp thật đáng ước mơ một lền được đến đó. Thế nhưng đột nhiên tôi lại thấy thương bà mỗi khi màn đêm buông xuống. Nhìn bóng lưng bà gầy gò in trên vách lều khi đèn dầu được đốt lên chiếu sáng. Tôi tự biết được nếu như không vì tôi, tấm lưng kia đã không gầy đến thế. Và tôi nhớ đến tu hú, thay vì kêu não lòng người ngoài cánh đồng xa vắng kia. Tiếng tu hú như cứ kêu giúp hai bà cháu sẽ bớt phần cô đơn hơn.
Thế rồi cuộc sống yên bình rồi cũng qua đi chứ không thể níu giữ được nữa. Cũng chính trong năm ấy thì quân giặc tràn đến làng, chúng có những hành động thật là dã man đó như đốt nhà, cướp của, bắt người, đánh đập… biết bao nhiêu tội ác để không biết đâu cho hết. Hình ảnh căn nhà nhỏ bé đơn xơ xưa kia đâu còn, ở hai bên làng xóm thương hai bà cháu côi cút, đồng thời cũng đã giúp đỡ dựng được túp lều tranh để che mưa, che nắng. Lúc đó tôi da diết muốn viết thư cho cha kể cha mẹ nghe về việc ấy nhưng bà bảo với tôi rằng: “Bố ở chiến khu, bố còn việc bố, con có viết thư chớ kể này kể nọ, cứ bảo nhà vẫn được bình yên để bố mẹ yên tâm mà đánh giặc cùng mọi người”. Và vậy là trong lá thư ấy chỉ có nỗi nhớ tôi dành cho cha mẹ và như lời bà tôi nói nhà vẫn được bình yên. Lúc đó bản thân tôi cũng cứ thắc mắc mãi chuyện vì sao bà không cho tôi kể chuyện giặc đốt nhà nhưng cho đến khi lớn lên thì tôi đã hiểu thêm được sự kiên cường của bà tôi. Bà tôi cũng đã chọn cách tự mình gánh vác việc nhà để lo việc đất nước, bà không muốn bố mẹ tôi phải lo lắng về chuyện nhà cửa. Tôi bỗng nhiên cảm nhận thấy bà là người có một niềm tin thật vững chắc vào cuộc kháng chiến của dân tộc ta, có một lòng lặng lẽ hi inh cao cả. Đến bây giờ tôi nghĩ rằng không chỉ bà tôi mà tất cả những người bà người mẹ của dân tộc đều kiên cường như thế thì mới có ngày hòa bình hôm nay.
Ngày hôm nay tôi đang được đón nhận nền học vấn ở một nơi xa yên ổn và an bình nhưng không ngày nào tôi thôi nhớ về quê hương, không nguôi nhớ về bà tôi. Cũng đã mấy chục năm nay, bà vẫn tần tảo sớm hôm một nắng hai sương như vậy và trong những lá thư gửi qua tôi biết bà vẫn giữ thói quen dậy sớm nhóm bếp. Ngay ở chính nơi quê nhà chỉ có một mình nhưng bà có bà con lối xóm cùng chia ngọt sẻ bùi nên cũng ắp đầy tình thương mến. Và có lẽ rằng chính ở đó, bà nhóm lên bếp lửa từng ngày là để giữ lại hơi ấm lửa của tuổi thơ cho đứa cháu một ngày trở về sẽ ngồi lại bên hơi ấm ấy mà ôm bà. Hình ảnh ngọn lửa chập chờn ấy chính là ngọn lửa thiêng liêng và kì diệu nhất, đẹp đẽ nhất trong cuộc đời tôi, là ngọn lửa đại diện cho sự sống và tình yêu không bao giờ tắt của tôi.
Ngay khi tôi ở nơi đất khách, tôi vẫn không sao quên được mùi khóm của bà, hơi ấm lửa của bà. Cho dù sau này có đi đâu xa, có ngọn khói trăm tàu, lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả thì hạnh phúc của tôi cũng chỉ đặt ở ngọn lửa do chính tay bà nhen nhóm lên mà thôi.
Bài thơ Bếp Lửa
Chuyển bài thơ “Bếp lửa” thành câu chuyện – Bài làm 2
Nga 1963.
Ngoài trời, tuyết rơi trắng xóa. Đường phố vắng tanh, không một bóng người. Thỉnh thoảng chỉ nghe vang vọng đâu đây tiếng “cờ rộp, cờ rộp” của chiếc xe ngựa chạy vội trong đêm. Mọi nhà đều đã thắp đèn đi nghỉ. Chỉ còn le lói vài ánh đèn vàng mờ rồi bỗng vụt tắt. Tôi vẫn chưa ngủ. Cái buốt giá của mùa đông thấu tận trong tâm can khiến tôi bất giác nhớ lại những ngày tháng ấm áp của tuổi thơ. Bên chiếc lò sưởi bập bùng ánh lửa, tôi chợt nhớ đến bà, nhớ đến những hồi ức có bà ở bên, bên bếp lửa nồng đượm tình yêu thương.
Lim dim đôi mắt, tôi nhớ lại cái năm tôi lên bốn tuổi. Thời kì này, cái đói, cái thiếu thốn hoành hành khắp nơi. Ngân khố nhà nước cũng chỉ vẻn vẹn có vài đồng. Người Việt Nam quen gọi cái sự kiện kinh hoàng này là “nạn đói năm 45”. Cái đói triền miên dai dẳng, cái đói vắt kiệt sinh lực của biết bao nhiêu con người. Số người chết vì đói gấp rất nhiều lần số người chết vì bệnh tật. Những người còn lại sống vật vờ như những bóng ma trong đêm. Bố tôi đi đánh xe ngựa với con ngựa gầy còm, ốm yếu, tất cả trong mùi khói hun đến nghẹt thở, nao lòng cả tuổi thơ. Tuổi thơ của tôi không phải là vòm trời cổ tích cao rộng và nhuốm màu lãng mạn của những phép màu kì diệu, mà đúng hơn khói bếp đã bao trùm ấn tượng suốt khung trời tuổi thơ. Tôi chợt thấy sống mũi của tôi xộc lên một thứ gì đó cay nồng khiến cho hàng lệ bất giác tuôn rơi. Dư vị một thời thơ bé vẫn còn ám ảnh đâu đây, nghĩ lại vẫn thấy xót thương trong hồi ức về bà.
Thực dân Pháp trở lại xâm lược nước ta, ba mẹ tôi phải đi ra chinh chiến ngoài mặt trận. Họ gửi tôi cho bà chăm sóc. Suốt thời gian đó tôi cùng bà nhóm lửa. Tám năm chưa phải là dài so với một đời người nhưng đối với tôi, nó như kéo dài đến triền miên, vô tận bởi tám năm ấy chỉ hai bà cháu tôi nương tựa vào nhau. Bà thường ôm tôi vào lòng, bên chiếc bếp bập bùng ngọn lửa, bà kể cho tôi những câu chuyện hồi bà còn ở Huế. Vào những ngày hè rực nắng, tiếng chim tu hú kêu tha thiết nhưng nghe như khắc khoải, giục giã cả một khoảng trời. Mỗi khi nghe tu hú kêu, tôi thường đứng lặng hàng giờ, tôi nói với cánh chim ngoài đồng kia: “Tu hú ơi! Sao mày không đến ở cùng bà, sao cứ kêu hoài trên những cánh đồng xa kia vậy?”. Ba mẹ tôi đi rồi nên việc chăm sóc, dạy dỗ tôi đều nhờ cả vào đôi bàn tay bà. Bà bảo tôi những điều hay lẽ phải, bà dạy tôi những bài học bổ ích. Mỗi việc làm của bà đều thấm đượm tình yêu thương. Để có thể học ở Trường Đại học Tổng hợp KF như bây giờ có lẽ cũng đều nhờ công sức bà dạy dỗ cho tôi. Nghĩ vậy lòng tôi lại dâng lên lòng nhiệt huyết, tôi sẽ cố gắng học tập và rèn luyện thật tốt sao cho xứng đáng với những gì bà mong đợi.
Chiếc lò sưởi bỗng cháy lên dữ dội. Cái ngọn lửa đó đưa tôi về cái năm giặc đốt phá làng cháy tàn, cháy rụi. Sau những ngày tháng đi tản cư, cả dân làng trở về lầm lụi. Hàng xóm bốn bên giúp hai bà cháu tôi dựng lại túp lều tranh nhỏ để có chỗ che nắng che mưa. Gian khổ là thế, vậy mà bà vẫn vững lòng. Tôi vẫn còn nhớ như in câu nói của bà “Mày có viết thư cho ba mẹ chớ có kể này kể nọ, cứ bảo là nhà vẫn được bình yên”. Hồi đó tôi chưa đủ chín chắn để có thể hiểu được câu nói của bà. Tôi chỉ thắc mắc tại sao bà lại nói dối trong khi bà luôn dạy tôi phải luôn trung thực. Sau này tôi mới hiểu và cảm thấy xúc động vô cùng khi biết đó chính là hành động hy sinh âm thầm của bà. Bà đã nhận về mình tất cả những mất mát, khổ đau để cho ba mẹ tôi có thể yên tâm đánh giặc cứu nước. Tấm lòng của bà thật bao la, độ lượng làm sao!
Cơ hàn rồi giặc giã… lại vẫn chỉ có hai bà cháu tôi sớm tối. Tôi thương bà lắm nhưng chẳng biết làm thế nào cho bà đỡ khổ. Rồi sớm rồi chiều, ngày lại qua ngày, bà vẫn nhen lên bếp lửa và ấp ủ trong lòng ngọn lửa tình thương bà dành cho tôi, của niềm tin vào một ngày chiến thắng, các con sẽ trở về đoàn tụ. Suốt một đời gian nan, vất vả, bà tôi tần tảo chăm sóc cho con, cho cháu. Hình ảnh bà tôi với mái tóc bạc phơ luôn đi đôi với bếp lửa rực hồng. Bếp lửa do tay bà nhen nhóm tỏa hơi ấm khắp căn lều nhỏ và sưởi ấm cả lòng tôi, khơi gợi những tâm tình thiết tha của thời thơ dại.
Giờ đây tôi đã trưởng thành, được Tổ Quốc chắp cho đôi cánh để bay vào bầu trời thênh thang của tri thức và khoa học. Tôi đã được khám phá biết bao điều mới mẻ nhưng tôi không bao giờ quên được hình ảnh bếp lửa bà nhen lên mỗi sớm mỗi chiều ở quê nhà. Bởi đó là cội nguồn, bởi cuộc đời tôi đã được nhen lên bởi ngọn lửa ấy. “Bà ơi, giờ đây bà đã đi xa, cháu chẳng bao giờ có thể gặp lại bà được nữa, nhưng hình ảnh bà sẽ mãi như ngọn lửa bà nhen, hừng hực cháy trong trái tim cháu để cháu có thêm động lực, để bước tiếp trên con đường tri thức”
Tôi thiếp đi lúc nào không hay. Tôi đã mơ một giấc mơ thật đẹp. Tôi lại trở thành cậu bé năm ấy và bà hiện lên thật đẹp, hiền từ và nhân hậu như bà tiên trong câu chuyện cổ tích…
Chuyển bài thơ “Bếp lửa” thành câu chuyện – Bài làm 3
Một buổi sáng tháng 9 tại Kiev trong màn sương trắng giăng phủ. Một lớp sương mờ mờ bên ngoài ô cửa kính, vắt vẻo trên cành cây, luồn lách qua mỗi gầm ô tô. Những làn sương mỏng manh như màu khói, thoang thoảng dư vị của quá khứ một thời. Xa xa, một màu hồng nhen nhóm trong đám khói của kí ức… Là bếp lửa của bà tôi. Là bà tôi …
Khói và mùi khói- những thứ đã quá quen thuộc với tuổi thơ của một đứa trẻ như tôi, ngay từ khi mới lên bốn tuổi. Khói của bếp lửa bà nhen lên mỗi ngày trong căn bếp nhỏ hẹp, khói ở ngoài kia xộc vào trong nhà. Nếu chẳng là khói, tại sao không khí ngoài kia lại âm u và xám xịt đến thể?
Những năm ấy, năm của 1945 đói mòn đói mỏi. Trẻ con không dám và cũng không được cho ra ngoài bởi những cái thây đang chất đầy ngoài đường. Mặt họ hốc hác, tiều tùy, chỉ có xương đang lả đi, đang bất động vì không thể hoạt động được nếu chỉ có không khí mà sống. Tôi chỉ dám đứng gần đó, tựa cửa đợi bố về. Đó là một cái bóng khô rạc, gầy gò cũng chẳng khác gì con ngựa mà bố đang đi cả. Những con người chẳng một chút quen biết kia hay chính người thân thích tôi vẫn đang tựa cửa hằng ngày đợi đây, liệu họ có còn sống không, ngày mai tôi có nhìn thấy họ nữa không?… Và mùi khói kia lại tràn về. Không còn gì khác trong kí ức của một đứa trẻ bốn tuổi non nớt, chỉ là một mùi khói, một làn khói. Những làn khói đủ sức làm sống mũi của tôi bây giờ vẫn còn cay.
Ngồi nơi đây, tôi vẫn nghe văng vẳng tiếng tu hú. Tiếng tu hú vọng về từ một nơi nào đó, rất xa. Có lẽ là từ kí ức, kí ức của tám năm ròng cùng bà nhóm lửa. Khi ấy, ngồi nơi căn bếp chật hẹp, tối tăm, tiếng tu hú gợi mở tôi về cả một thế giới mênh mông, về những điều tốt đẹp và hạnh phúc nhưng lại rất đỗi xa vời. Những khi ấy, bà vẫn thường bế tôi vào lòng. Đôi bàn tay chai sần nhẹ nhàng xoa đầu tôi, bà kể tôi nghe những ngày ở Huế. Bà kể tôi nghe về những tháng năm dân quân cùng nhau hoạt động, về cái ngày mà bà bế tôi nghe tin Bác Hồ đọc bản tuyên ngôn độc lập, cái ngày mà có nước Việt Nam, có Huế độc lập.
Tiếng tu hú vẫn tha thiết, vẫn khắc khoải trong nỗi nhớ mênh mông của đứa trẻ dành cho cha mẹ. Bà bảo họ đang đi công tác, đang làm việc cho Bác Hồ, cho cuộc sống tốt đẹp hơn của hai bà cháu. Vậy là tuổi thơ của tôi gắn bó với bà còn nhiều hơn cả cha mẹ. Bà kể chuyện tôi nghe, bà dạy tôi biết làm những công việc trong nhà, biết tự lập. Bà giúp tôi chắp cánh đến gần với những con chữ, đến với tương lai. Những kí ức ấy vẫn còn tươi rói, như mới hôm qua, như vừa mới đây thôi. Rồi hình ảnh bà một mình. Hình ảnh người là lầm lũi nhóm lửa mỗi sớm mai một mình làm tôi bỗng nhói đau. Tiếng tu hú vẫn văng vẳng không nguôi. Những con người cô đơn lại sống cuộc sống đơn độc trong một cuộc đời lầm lũi của mình, không thể gặp nhau, không thể cùng hòa làm một…
Dòng kí ức xoay chuyển, chỉ còn một màu hồng rực cháy khắp nơi. Không có những căn nhà, chẳng có những mái rơm rạ, chỉ là một ngọn lửa đang cháy điên cuồng. Những ngọn lửa của giặc cháy lên cùng với nỗi đau và tức giận của những con người nơi đây vừa mới mất ngôi nhà thân yêu nhất của mình. Những khuôn mặt nhem nhuốc bước đi uể oải, tuyệt vọng từ đám tro tàn đi ra. Nhưng rồi, ngay sau đó lại là những nụ cười ấm áp. Họ hỏi thăm nhau, họ sẻ chia cho nhau, họ giúp bà cháu tôi dựng lại một túp lều mới, đong đầy tình yêu thương con người. Lúc ấy, bà vẫn nhớ mà dặn tôi rằng:
-Bố ở chiến khu còn nhiều chuyện phải lo, đừng nói gì khiến bố bận lòng. Không phải bà cháu mình vẫn bình an, và có cả một căn nhà mới rồi sao? Cứ viết thư bảo nhà vẫn được bình yên, nghe!
Nhìn khuôn mặt hiền từ với nụ cười lạc quan của bà, tôi chỉ biết gật đầu. Bà có phải tiên, phật hay không mà sao mà lại đẹp như vậy!
Sớm rồi chiều, bếp lửa ấy vẫn bập bùng mãi không tắt. Từ năm này qua năm khác, bàn tay ấy vẫn đều đặn nhóm lửa. Những củ khoai củ sắn trong những năm đói rét, trong những năm bom đạn, lửa thiêu vẫn đến tay đứa cháu, vẫn đến tay mọi người. Là khoai sắn ấy nuôi tôi lớn hay chính tình yêu thương của bà ủ trong bếp hồng, là khoai sắn hay chính tình làng xóm tạo nên niềm vui nơi xóm nhỏ? Có lẽ chính là tấm lòng của bà, là bàn tay người nhóm lửa, là đức hi sinh muôn đời của người phụ nữ Việt Nam.
Nơi tôi ở được thắp sáng trong ánh đèn điện, được sưởi ấm bên lò sưởi hiện đại, nhưng tôi vẫn thấy lạnh. Dẫu khói ở trăm nhà nhưng chẳng có điều gì có thể làm cay mắt tôi như ngọn khói năm ấy. Chẳng có món nào ngon như củ khoai ấy, lời nói nào hay như những lời mắng yêu của bà… Liệu lúc này, trong một buổi sớm mai, bà đã nhóm bếp chưa?
Chuyển bài thơ “Bếp lửa” thành câu chuyện – Bài làm 4
Thế là tôi đã rời xa quê hương lên đường sang đất nước Nga xa xôi này du học được hơn 4 tháng rồi. Ở đất nước này mùa đông dường như dài hơn và lạnh hơn rất nhiều so với miền quê Việt Nam của tôi.
Buổi sáng mùa đông, tôi mở cửa sổ nhìn ra bên ngoài thấy hai bên đường từng hàng cây trơ trụi lá chỉ còn những bông tuyết trắng xóa đậu lại trên cây.
Trong tâm hồn của tôi lúc ấy lại mường tượng lại hình ảnh chiếc bếp lửa của bà ngày nào. Một bếp lửa ấm áp, chờn vờn mỗi buổi sớm mai. Tôi nhìn thấy hình ảnh bà tôi chập chờn rung rinh theo hình ảnh ngọn lửa. Trải qua biết bao nhọc nhằn mưa nắng của dòng đời mà bếp lửa của bà vẫn ấp iu nồng đượm vẫn mang bao hơi ấm yêu thương trong tâm trí của tôi.
Tôi chợt nhớ năm mình lên bốn tuổi, dù nhỏ lắm nhưng mùi khói bếp là mùi tôi luôn yêu thích bởi nó là thứ mùi thân thuộc, thân thương như bà của tôi. Tôi chợt rùng mình nhớ đến nạn đói năm 1945 đã giết chết 2 triệu người dân trên đất nước bé nhỏ của tôi. Năm đó là năm mà tất cả mọi gia đình đều đói mòn đói mỏi. Cha tôi lúc bây giờ phải đánh xa ngựa đi làm thuê. Toàn người khô rạc gầy mòn, mà cái đói vẫn bủa vây. Xóm làng tiêu điều hoang sơ, nghĩ lại tới giờ sống mũi tôi vẫn còn cay cay.
Rồi cách mạng tháng 8 nổi ra toàn dân quê tôi tất cả mọi người cùng lòng vùng dậy đánh đuổi Nhật, lật đổ Pháp để giành lại chính quyền chấm dứt kiếp lầm than, nô lệ.
Nhưng ngày vui ngắn ngủi qua mau khi thực dân Pháp quay trở lại cướp nước tôi một lần nữa. Theo lời Bác chúng người dân quê tôi lại cùng nhau đứng lên đánh đuổi giác xâm lược.
Trong tám năm ròng rã, ba mẹ đi xa chỉ có bà cháu tôi ở nhà trông nhau, che chở cho nhau bên chiếc bếp lửa hồng sớm tối. Bà kể cho tôi nghe rất nhiều chuyện về những ngày bà còn ở Huế. Mỗi lần hè về vào ngày tháng 5 bà thường nghe thấy tiếng tu hú kêu vô cùng tha thiết. Tiếng Tu hú kêu gợi nhớ cho bà nhớ quê hương, nhớ người thương. Tôi cứ thế lớn lên trong sự bao bọc của bà. Mỗi lần nghe tiếng tu hú tôi lại nhớ bà và tự hỏi chim tu kêu chi hoài sao tha thiết thế, giá như nó có thể tới đây và ở cùng bà cháu tôi có lẽ nó sẽ không cảm thấy cô đơn như vậy.
Chiến tranh mở rộng bọn giặc tàn ác đã tàn phá, đốt làng đốt xóm quê tôi, những người trước kia đi tản cư hôm nay cũng trở về làng, lầm lụi, ít nói. Trên gương mặt ai cũng khắc sâu sự căm thù tận xương tủy. Tôi viết thư cho bố muốn kể cho bố nghe về những tình hình của làng mình gần đây nhưng bà nhất định không cho bà bảo: “Mày có viết thư chớ kể này kể nọ.Cứ bảo cả nhà vẫn bình yên”
Ngày này qua tháng nọ, tôi và bà bên nhau mỗi sớm mai thức dậy, rồi khi đêm tối bà lại nhóm lên bếp lửa. Một bếp lửa ấp ủ, nuôi trong lòng bà những hy vọng, niềm tin về một ngày chiến thắng sẽ đến không xa nữa. Rồi ngày đó sẽ tới cả nhà tôi sẽ lại đoàn tụ bên nhau.
Tôi giờ đây đã trưởng thành được đi nhiều nơi trên đất nước. Tôi có niềm vui trăm nhà, đường tôi đi trăm ngả nhưng tôi chưa bao giờ quên hình ảnh của bà bên bếp lửa thân thương.
Nhìn về nơi quê nhà thân thương tôi nhớ bà cùng bếp lửa thân thuộc gắn liền tuổi. Hình ảnh của bà thân thương cùng bếp lửa cứ theo tôi sưởi ấm trái tim tôi ấm áp suốt cuộc đời.
Chuyển bài thơ “Bếp lửa” thành câu chuyện – Bài làm 5
Tuổi thơ của tôi gắn liền với hình ảnh của người bà tần tảo, suốt những năm tháng đầy khó khăn nhất bà đã luôn cùng tôi trải qua mọi biến cố. Đối với tôi bà chính là người mà tôi yêu thương, kính trọng nhất trên đời, mọi kí ức của tuổi thơ tôi cũng đều chứa đựng những hình dáng của bà, bởi vậy mà nói về tuổi thơ, kỉ niệm của một thời hồn nhiên trong sáng thì có lẽ kỉ niệm đẹp nhất trong tôi đó chính là kỉ niệm về người bà dấu yêu.
Hình ảnh tuổi thơ tôi cứ ồ ạt ùa về, đó chính là hình ảnh bếp lửa mà tôi vô tình bắt gặp, nó đưa tôi về những kí ức của tuổi thơ, là khoảng thời gian sống cùng bà. Hoạt động quen thuộc trong ngày của hai bà cháu chính là nhóm lửa. Những hình ảnh ngọn lửa chờn vờn trong sương sớm, những ngọn lửa thắp lên tình yêu thương dường như cháy bỏng trong tôi, gợi cho tôi về hình ảnh của người bà. Trong những ngày tháng sống cùng bà, bà tôi đã vất vả dãi dầu nắng mưa để cho tôi có một cuộc sống đủ đầy, tốt đẹp hơn:
“Một bếp lửa chờn vờn sương sớm
Một bếp lửa ấp iu nồng đượm
Cháu thương bà biết mất nắng mưa”
Không biết tự khi nào, bếp lửa đã trở thành thứ quen thuộc trong cuộc sống của tôi, khi lên bốn tuổi thì hình ảnh bếp lửa đã in sâu vào trong tâm trí, tôi cũng dần quen với mùi khói bốc lên từ bếp lửa, đó là hơi ấm thân thuộc như chính tuổi thơ của tôi. Tôi còn nhớ rất rõ đó là năm đói kém mất mùa, khiến cho cuộc sống của hai bà cháu cũng như những người hàng xóm xung quanh vô cùng khổ cực, vất vả. Để kiếm thêm kế sinh nhai cho cả gia đình, bố tôi đã phải đi đánh xe thuê.
Tần xuất công việc vất vả không chỉ khiến cho bố tôi thêm những mệt mỏi mà ngay cả những người bạn đồng hành cùng bố tôi, đó là con ngựa cũng khô dạc người. Kí ức về cái đói cái khổ vẫn hằn sâu trong tâm trí mà sau này mỗi khi nhớ lại thì khóe mắt tôi lại cay cay, đó là cái cay do khói bếp nhưng cũng là cái cay do cuộc sống mang lại:
“Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói
Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi
Bố đi đánh xe khô rạc ngựa gầy
Chỉ nhớ khói hun làm nhoèn mắt cháu
Nghị lại đến giờ sống mũi còn cay”
Tám năm ròng tôi đã cùng bà đốt lửa, những kỉ niệm cũng vì vậy mà ngày càng nhiều, hai bà cháu cùng nhau trải qua những khó khăn, những biến cố của cuộc sống. Trong mỗi kí ức của tôi đều có bà, đó chính là những tiếng tu hú vang vẳng trên những cánh đồng xa, là những câu chuyện thú vị, hấp dẫn mà bà kể khi còn ở Huế. Tiếng tu hú vẫn da diết kêu sao mà tha thiết, sao mà xao xuyến thế, đến bây giờ những tiếng kêu vẫn vang vẳng trong tâm trí của tôi những thanh âm trầm bổng gợi nhớ:
“Tám năm ròng cháu cùng bà nhóm lửa
Tú hú kêu trên những cánh đồng xa
Khi tu hú kêu bà còn nhớ không bà
Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế
Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế”
Cuộc sống của hai bà cháu đơn độc vì bố mẹ tôi đi công tác xa nhà, mái nhà nhỏ đơn sơ chỉ có hai bà cháu nương tựa, che chở lẫn nhau. Nhưng cuộc sống của tôi không hề đơn độc, đó là bởi vì có bà, có tình yêu và hơi ấm của bà. Bà không chỉ nuôi dưỡng tôi trưởng thành mà còn dạy bảo tôi những điều hay lẽ phải của cuộc sống, dạy tôi những bài học thật bổ ích. Cuộc sống của bà khó nhọc, vất vả cả một đời vì con vì cháu, những hi sinh thầm lặng của bà đâu có gì có thể đong đếm. Những tiếng tu hú vẫn dai dẳng trên những cánh đồng, những tiếng tu hú cũng khiến cho cuộc sống của hai bà cháu thêm màu sắc, sinh động hơn:
“Mẹ cùng cha công tác bận không về
Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe
Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học
Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc
Tu hú ơi! Chẳng đến ở cùng bà
Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa”
Tuổi thơ của tôi cũng gắn liền với rất nhiều những biến cố, những sự kiện nóng bỏng của xã hội, năm ấy là năm giặc đốt cháy làng khiến cho cuộc sống của chúng tôi, những người dân vốn đau khổ vì đói nghèo nay càng thêm lam lũ, lầm tham. Những ngôi làng bị đốt cháy rụi, cảnh vật hoang tàn, đổ nát, bốn bề hàng xóm trở về lầm lụi. Ngôi nhà của tôi và bà bị giặc đốt cho cháy rụi, tôi đã cùng bà dựng lại ngôi nhà, làm nơi che mưa che nắng.
Vừa dựng nhà bà vừa khuyên tôi nên giữ vững niềm tin, bà nhắc nhở tôi phải vững lòng, tuy chiến tranh ác liệt nhưng bố tôi ở nơi chiến trường xa xôi chắc chắn vẫn bình an. Bà nhắc nhở tôi khi có viết thư cho bố thì không nên kể chuyện giặc đốt nhà, vì sẽ làm cho bố lo lắng, bất an mà không thể yên tâm công tác tốt được:
“Vẫn vững lòng, bà dặn cháu đinh ninh
“Bố ở chiến khu, bố còn việc bố
Mày có viết tư chớ kể này kể nọ
Cứ bảo nhà vẫn được bình yên”
Bà tôi luôn quan tâm đến những thứ dù là nhỏ nhặt nhất như vậy đấy, cuộc sống của tôi, tuổi thơ của tôi được nuôi dưỡng bằng chính tình yêu của bà. Bà đã đốt lên trong tôi ngọn lửa của yêu thương, ngọn lửa của niềm tin mạnh mẽ, cháy bóng như chính ngọn lửa trên bếp lửa mà tôi và bà từng nhen. Giờ đây, dù đã trưởng thành nhưng cuộc sống bên bà vẫn luôn sống mãi trong tôi, bà vẫn là người mà tôi yêu mến và kính trọng nhất.
Bài thơ Bếp Lửa của tác giả Bằng Việt
Chuyển bài thơ “Bếp lửa” thành câu chuyện – Bài làm 6
Tôi đã đặt chân đến đất nước Hàn Quốc thấm thoát đã sáu tháng rồi. Ở đây đang là mùa đông. Sáng sớm tôi thường vén rèm nhìn qua khung cửa sổ tầng thứ mười bốn kí túc xá sinh viên để nhìn ra ngoài đường. Tuyết rơi trắng xóa trên máy nhà, phủ kín cả nhà thờ cổ kính và trên những cành cây ngoài đường. Tôi thấy rùng mình ớn lạnh trong mấy chiếc áo len và thêm chiếc áo khoác dày sụ. Trong tâm trí tôi lúc này hiện lên một bếp lửa cháy bùng ở quê nhà mỗi buổi sớm sương mai mà bà hay dậy sớm nhóm. Bếp lửa tỏa sáng bập bùng in bóng bà trên vác nhà tranh. Trải qua bao mưa nắng thời gian mà bếp lửa vẫn ấp ui nồng thắm gắn liền với người bà kính yêu của tôi vẫn mãi trong kí ức người cháy đang sống xa nhà, xa quê hương đất nước.
Qúa Khứ dần dần hiện lên trong tôi như một cuốn phim quay chậm. Lên bốn tuổi tôi đã quen mùi khói. Đó là nạn đói khủng khiếp xảy ra năm 1945 làm cho hơn hai triệu người phải chết đói. Đó là chính sách cai trị tàn bạo và đọc ác của bọn thực dân phát xít Pháp và Nhật ở Việt Nam. Giống như bao nhà nông dân khác, gia đinh tôi cũng đói mòn đói mỏi. Cha thì đi đánh xe ngựa chợ hàng thuê. Cả người và ngựa khô rác vì miếng cơm manh áo. Cảnh đau thương tan tóc diễn ra ở khắp chốn. Người ta phải đốt những đống rơm rạ để hơi nóng xua tan đi tử khí. Nghĩ lại giờ sống mũi tôi vẫn cay cay, nước mắt cứ trực tuôn trào.
Cách mạng tháng tám bùng nổ Đảng và Bác Hồ lãnh đạo nhân dân ta bùng lên đánh Pháp ra khỏi bờ cõi giành lại độc lập tự chủ. Nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ra đời. Không bao lâu thực dân Pháp quay lại cướp nước ta lần nữa. Đảng và Bác Hồ kêu gọi toàn dân trường kì kháng chiến. Cha mẹ tôi gửi gắm tôi cho bà ngoại để thăm ra cuộc khởi nghiã xâm lăng.
Suốt tám năm trời tôi ở cùng bà quấn quýt bên bà, bên bếp lửa hồng. Bà kể cho tôi nghe nhưng ngày bà phải lưu lạc ở Huế. Nghe tiếng chim tu hú kêu mà thêm nhớ que nhà. Cha mẹ thì đi công tác xa, biền biệt không về. Quanh quẩn sớm khuya chỉ có hai bà cháu nên bà đã dành tất cả tình yêu thương cho đứa cháu bẻ bỏng là tôi. Bà thương dạy cho tôi những điều hay lẽ phải, bà là người thầy đầu tiên dạy cho tôi tập đọc tập viết. Tôi lớn dần lên trong vòng tay bao bọc của bà.
Cuộc kháng chiến chống Pháp đã bước vào giai đoạn quyết liệt. Giặc Pháp đánh tràn khắp mọi nơi. Chúng đi đến đâu cướp sạch, đốt sạch phá hủy đến đó, gây ra bao tội ác ngất trời. Giặc tràn vào làng tôi, mấy trăm ngôi nhà bị đốt tàn, cháy rụi. Sau mấy ngày tản cư dân làng tôi lại lũ lượt kéo nhau về gây dựng lại những ngôi nhà đơn sơ trên nền đất vương vái tro tàn. Dân làng giúp bà cháu tôi dựng lại túp lêu tranh nhỏ bên góc vườn. Bà dặn tôi: ” Ba mẹ cháu ở chiến khu bận nhiều việc lắm. Nếu có viết thư, cháu nhớ viết rằng mọi việc ở nhà vẫn bình thường để bố mẹ yên tâm”. Tôi hiểu lòng bà càng thêm yêu quý bà hơn. Ngày lại qua ngày bà vẫn nhen lên bếp lửa và ấp ủ trong lòng ngọn lửa niềm tin vào một ngày mai chiến thắng con sẽ trở về đoàn tụ sum họp.
Suốt cuộc đời lao đao lận đận bà tôi chăm lo cho con, cho cháu. Hình ảnh bà tôi máy tóc bạc phơ, lưng đã còm cõi luôn đi đôi với bếp lửa rực hồng. Bếp lửa do bà nhen nhóm tỏa hơi ấm khắp căn lêu nhỏ và sửa ấm trong lòng tôi, khơi dậy những tâm tình xót xa của thời thơ ấu thơ dại.
Giờ đây tôi đã trưởng thành được sống trên bầu trời trong xanh, bầu trời của nền độc lập tự do. Được tổ Quốc chắp cánh bay trên cái bầu trời của tri thức của nên khoa học kĩ thuật tiên tiến. Bàn chân tôi đã in dấu chân trên những miền đất xa xôi. Mắt tôi đã nhìn thấy những điều mới lạ đổi thay từng ngày. Nhưng tôi sẽ mãi không quên hình ảnh bếp lửa hồng mà bà tôi đã nhen nhóm vào mỗi sớm mai, mỗi chiều ở quê nhà. Tôi ao ước được về cái ngày xưa bên bà, ôm chặt lấy bà mà thủ thỉ: ” Bà ơi! Bà kính yêu của cháu ơi! Bà chính là người giữ lửa truyền ngọn lửa của sự sống và niềm tin bất diệt cho các thế hệ con cháu của mình!”. Hình ảnh người bà kính yêu cùng với bếp lửa hồng sẽ mãi mãi theo tôi đi suốt cuộc đời này.
Chuyển bài thơ “Bếp lửa” thành câu chuyện – Bài làm 7
Hồi ức về bếp lửa đã thổi luồng hơi ấm làm bớt đi cái lạnh lẽo của mùa đông xa quê. Nỗi nhớ quê có cha mẹ, có bà nội cứ day dứt hoài khôn nguôi. Nơi đó luôn vương vấn hình ảnh bà nội tảo tần hôm sớm. Dáng bà còng lưng thổi bếp, thổi mãi cho đến khi bếp cháy và toả ra luồng hơi ấm nồng nàn. Hơi ấm của lửa tràn khắp căn bếp nhỏ sưởi ấm tâm hồn đơn côi của hai bà cháu, sưởi ấm sự chờ mong và niềm tin vào ngày mai chiến thắng.
Một bếp lửa chờn vờn sương sớm
Một bếp lửa ấp iu nồng đượm
Cháu thương bà biết mấy nắng mưa!…
“Tôi nghĩ rằng, chính sự quần tụ quanh bếp lửa của gia đình Việt là những ấn tượng về nét riêng biệt mà thiêng liêng giúp tôi làm nên những vần thơ đầy cảm xúc đó”. Bên lửa và cùng với lửa, những người trong gia đình kể cho nhau nghe mọi chuyện trên đời, về sự khó khăn, may mắn và thành công. Không khí ấm cúng của gia đình Việt có lẽ không bao giờ thiếu lửa. Bên lửa muôn thuở vẫn là những người đàn bà mang dáng dấp và phong cách Việt Nam. Vì thế, đương nhiên, bà và bếp lửa trở thành hình tượng gần gũi, thân thương, cụ thể và trìu mến. Bà thổi hồn cho bếp, thổi vào đó tình cảm và trách nhiệm, lòng yêu thương cũng như sự hy sinh. “Tôi nhớ mãi hình ảnh bà đun bếp, phải khó khăn mới thổi được bếp lên, giữ cho lửa thật đều, thật đậm là cả một nghệ thuật”. Những người phụ nữ Việt Nam luôn là hiện thân của sự gắn kết cuộc đời mình với bếp lửa, với sự nồng nàn ấm áp của lửa và một niềm tin không thể chuyển lay.
“Cho đến ngày hôm nay, qua bao nhiêu thăng trầm của cuộc đời, tôi vẫn không sao quên được hình ảnh bà và ngọn lửa trong trái tim bà. Bà và bếp lửa. Hai hình tượng ấy có lẽ đã thực sự làm nên dấu ấn trong cuộc đời tôi. Bây giờ, cuộc sống thay đổi quá nhiều, bếp lửa truyền thống không còn vẻ hữu dụng của nó trong cuộc sống thường nhật nữa. Nó đã bị thay thế bằng đủ kiểu bếp nhanh hơn, tốt hơn. Cảnh xúm xít thiêng liêng quanh bếp lửa gia đình bỗng trở nên hiếm hoi hơn. Ăn uống cũng không thành vấn đề gì nặng nề nữa, từ cơm cặp lồng, đến cơm hộp rồi cơm nhà hàng, tự nhiên lại chạnh lòng nhớ tới bàn tay cần cù của bà chăm sóc nấu nướng thưở xa xưa”.
Nhắc đến bà, vẫn thấy đâu đây cái mùi khói lan toả từ bếp của bà, sống mũi nhà thơ dường như vẫn còn cay. Bếp lửa thực ra chỉ là bếp lửa thôi, nhưng hồn bếp vẫn đi cùng năm tháng với ông, vẫn gắn với toàn bộ cuộc đời thơ ca của ông:
Giờ cháu đã đi xa
Có lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả
Nhưng vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhở:
Sớm mai này bà đã nhóm bếp lên chưa?…
Phải làm sao cho làn khói tan trong gió, mờ trong sương, khói ẩn vào cây, len vào rừng!”. Chính cái cay cực ấy, cái lui cui khó nhọc ấy – những kỷ niệm thú vị về một thời đạn bom mà những ai đã trải qua đều không thể nào quên được, đã tạo nên những cảm xúc để sau này.Tôi nhớ mãi câu chuyện rất nhân văn của nhà văn Nga Koronenko. Trên con thuyền lạnh lẽo, đầy sương mù, người lái thuyền liên tục động viên lữ khách rằng đằng kia có ánh lửa, sắp đến nơi rồi. Nhưng, càng đi, ngọn lửa càng xa, mãi mãi không bao giờ đến được. Đó là một triết lý mang tính nhân đạo cũng có cái gì đó thật hoài niệm xót xa. Sự ấm cúng, tưởng có thể với tới, nhưng chẳng phải dễ dàng gì…
Chuyển bài thơ “Bếp lửa” thành câu chuyện – Bài làm 8
Tôi đặt chân lên đất nước Nga thấm thoắt đã được bốn tháng rồi. Ở đây đang là mùa đông. Sáng sáng, tôi thường vén rèm cửa sổ căn phòng kí túc xá sinh viên từ tầng năm để nhìn ra ngoài. Tuyết rơi trắng xóa mái vòm nhà thờ cổ kính, trên ngọn cây và mặt đường. Tôi rùng mình ớn lạnh trong mấy lớp áo len, áo khoác dày sụ. Trong tâm tưởng tôi hiện lên hình ảnh một bếp lửa chờn vờn trong sương sớm ở quê nhà. Bếp lửa toả sáng bập bùng, in bóng bà tôi chập chờn trên vách liếp. Ôi, trải qua bao mưa nắng thời gian mà bếp lửa ấp iu nồng đượm gắn liền với người bà kính yêu của tôi vẫn lung linh trong kí ức đứa cháu đang sống xa quê hương, đất nước.
Quá khứ lần lượt hiện lên như một cuốn phim quay chậm. Lên bốn tuổi, tôi đã quen mùi khói. Đó là năm 1945, nạn đói khủng khiếp xảy ra khiến cho hơn hai triệu người chết đói. Đây là hậu quả của chính sách cai trị tàn ác, vô nhân đạo của thực dân Pháp và phát xít Nhật ở Việt Nam giai đoạn này. Giống như bao gia đình nông dân khác, gia đình tôi cũng đói mòn đói mỏi. Cha tôi đi đánh xe ngựa chở hàng thuê. Cả người lẫn ngựa khô rạc mà đồng tiền kiếm được chẳng đáng là bao. Cảnh đau thương, tang tóc diễn ra khắp chốn. Người ta phải đốt những đống rạ, đống trấu lớn để hơi nóng xua bớt đi tử khí. Xóm làng điêu tàn ngập trong mùi khói. Nghĩ lại, đến giờ sống mũi tôi vẫn cay cay, nước mắt muốn ứa ra.
Cách mạng tháng Tám bùng nổ, Đảng và Bác Hồ lãnh đạo nhân dân vùng lên đánh Pháp đuổi Nhật, giành lấy chính quyền, chấm dứt ách nô lệ kéo dài gần thế kỉ. Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ra đời. Chính phủ lâm thời được thành lập và lãnh tụ Hồ Chí Minh là vị Chủ tịch đầu tiên. Cả dân tộc hân hoan, phấn khởi trong niềm hạnh phúc vô bờ của cuộc sống tự do, độc lập.
Không lâu sau, thực dân Pháp quay lại cướp nước ta một lần nữa. Đảng và Bác Hồ kêu gọi toàn dân trường kì kháng chiến. Cha mẹ tôi gửi gắm tôi cho bà ngoại để tham gia vào sự nghiệp chống xâm lăng.
Suốt tám năm ròng, tôi ở cùng bà; sớm sớm, chiều chiều quấn quýt bên bà trước bếp lửa hồng. Bà rủ rỉ kể cho tôi nghe về những ngày lưu lạc ở Huế. Tháng năm, nghe tiếng chim tu hú kêu mà khắc khoải nhớ quê nhà. Cha mẹ tôi công tác xa, biền biệt không về. Quanh quẩn ra vào chỉ có hai bà cháu nên bà đã dồn tất cả tình yêu thương cho đứa cháu bé bỏng là tôi. Bà dạy tôi điều hay lẽ phải. Bà là người thầy đầu tiên dạy tôi tập đọc, tập viết những chữ đầu tiên trong cuộc đời. Tôi lớn dần lên trong vòng tay bao bọc của bà. Mỗi lần nghe tu hú kêu, tôi lại thầm hỏi: “Tu hú ơi! Sao mày chẳng đến ở cùng bà mà cứ kêu hoài trên những cánh đồng xa như vậy?”
Cuộc kháng chiến chống Pháp đã bước vào giai đoạn quyết liệt. Giặc Pháp đánh tràn ra mọi nơi. Chúng đi đến đâu cướp sạch, đốt sạch, giết sạch đến đó, gây ra tội ác ngút trời đối với dân ta. Giặc càn vào làng tôi, mấy trăm ngôi nhà bị đốt cháy tàn, cháy rụi. Sau những ngày tản cư, dân làng lầm lụi kéo về, dựng lại những ngôi nhà đơn sơ trên nền đất vương vãi tro than. Họ giúp bà cháu tôi dựng tạm túp lều tranh nho nhỏ góc vườn. Bà bình tĩnh dặn tôi: “Bố mẹ cháu ở chiến khu, bận nhiều việc lắm. Nếu có viết thư, cháu nhớ viết rằng ở nhà, mọi chuyện vẫn bình thường để bố mẹ yên tâm”. Tôi hiểu lòng bà, càng thêm yêu quý bà hơn. Ngày lại qua ngày, bà vẫn nhen lên bếp lửa và ấp ủ trong lòng ngọn lửa niềm tin vào một ngày chiến thắng; các con sẽ trở về đoàn tụ.
Suốt cuộc đời gian nan, lận đận, bà tôi tần tảo, chăm lo cho con, cho cháu. Hình ảnh bà tôi mái tóc bạc phơ, thân hình còm cõi luôn đi đôi với bếp lửa rực hồng. Bếp lửa do tay bà nhen nhóm tỏa hơi ấm khắp căn lều nhỏ và sưởi ấm lòng tôi, khơi dậy những tâm tình thiết tha của thời thơ dại.
Giờ đây, tôi đã trưởng thành, được Tổ quốc chắp cho đôi cánh để bay vào bầu trời thênh thang của tri thức và khoa học. Bàn chân tôi đã in dấu trên những nẻo đường xa xôi. Mắt tôi đã được nhìn thấy nhiều điều mới lạ. Nhưng tôi không bao giờ quên hình ảnh bếp lửa mà bà tôi ấp iu nhen lên mỗi sớm, mỗi chiều ở quê nhà. Tôi ao ước được về ngay bên bà, ôm chặt lấy bà mà thủ thỉ: “Bà ơi! Bà kính yêu của cháu ơi! Bà chính là người giữ lửa, truyền lại ngọn lửa của sự sống và niềm tin bất diệt cho các thế hệ con cháu của mình!”. Hình ảnh người bà kính yêu cùng bếp lửa hồng mãi mãi theo tôi suốt cả cuộc đời.
Chuyển bài thơ “Bếp lửa” thành câu chuyện – Bài làm 9
Gợi mở vấn đề bằng sự hồi tưởng của một người con xa xứ, một người cháu nhớ quê hương. Nhớ bà và bếp lửa gắn liền tuổi thơ. Thế là tôi đã rời xa quê hương lên đường sang đất nước Nga xa xôi này du học được hơn 4 tháng rồi. Ở đất nước này mùa đông dường như dài hơn và lạnh hơn rất nhiều so với miền quê Việt Nam của tôi.Viết câu chuyện theo dòng thời gian của ký ức, theo như bài thơ của tác giả Bằng Việt: Buổi sáng mùa đông, tôi mở cửa sổ nhìn ra bên ngoài thấy hai bên đường từng hàng cây trơ trụi lá chỉ còn những bông tuyết trắng xóa đậu lại trên cây. Trong tâm hồn của tôi lúc ấy lại mường tượng lại hình ảnh chiếc bếp lửa của bà ngày nào. Một bếp lửa ấm áp, chờn vờn mỗi buổi sớm mai. Tôi nhìn thấy hình ảnh bà tôi chập chờn rung rinh theo hình ảnh ngọn lửa. Trải qua biết bao nhọc nhằn mưa nắng của dòng đời mà bếp lửa của bà vẫn ấp iu nồng đượm vẫn mang bao hơi âm yêu thương trong tâm trí của tôi. Hình dung hồi tưởng lại thời gian thơ bé, lúc mình 4 tuổi:Bếp lửa Tôi chợt nhớ năm mình lên bốn tuổi, dù nhỏ lắm nhưng mùi khói bếp là mùi tôi luôn yêu thích bởi nó là thứ mùi thân thuộc, thân thương như bà của tôi.Tôi chợt rùng mình nhớ đến nạn đói năm 1945 đã giết chết 2 triệu người dân trên đất nước bé nhỏ của tôi. Năm đó là năm mà tất cả mọi gia đình đều đói mòn đói mỏi.Rồi cách mạng tháng 8 nổi ra toàn dân quê tôi tất cả mọi người cùng lòng vùng dậy đánh đuổi Nhật, lật đổ Pháp để giành lại chính quyền chấm dứt kiếp lầm than, nô lệ. Nhưng ngày vui ngắn ngủi qua mau khi thực dân Pháp quay trở lại cướp nước tôi một lần nữa. Theo lời Bác chúng người dân quê tôi lại cùng nhau đứng lên đánh đuổi giặc xâm lưoc. Trong tám năm ròng rã, ba mẹ đi xa chỉ có bà cháu tôi ở nhà trông nhau, che chở cho nhau bên chiếc bếp lửa hồng sớm tối. Bà kể cho tôi nghe rất nhiều chuyện về những ngày bà còn ở Huế. Mỗi lần hè về, vào những ngày tháng 5 bà thường nghe thấy tiếng tu hú kêu vô cùng tha thiết. Chiến tranh mở rộng bọn giặc tàn ác đã tàn phá, đốt làng đốt xóm quê tôi, những người trước kia đi tản cư hôm nay cũng trở về làng, lầm lụi, ít nói. Ngày này qua tháng nọ, tôi và bà bên nhau mỗi sớm mai thức dậy, rồi khi đêm tối bà lại nhóm lên bếp lửa. Hình ảnh bếp lửa gắn liền với người bà thân yêu: Một bếp lửa ấp ủ, nuôi trong lòng bà những hy vọng, niềm tin về một ngày chiến thắng sẽ đến không xa nữa. Rồi ngày đó sẽ tới cả nhà tôi sẽ lại đoàn tụ bên nhau.
Bài thơ Bếp Lửa của Bằng Việt
Chuyển bài thơ “Bếp lửa” thành câu chuyện – Bài làm 10
Tuyết rơi trắng xóa bên ngoài cửa sổ. Tôi đang là một sinh viên đang học ngành Luật ở nước ngoài, và tôi thì đang ngồi bên cửa sổ để ngắm nhìn tuyết buổi sáng ở trời phương Tây. Bầu trời phương Tây tuy có lạnh nhưng những hồi ức về bếp lửa nơi quê nhà đã thổi luồng hơi ấm làm xua tan đi cái lạnh ấy. Nỗi nhớ quê, có bà nội có day dứt khôn nguôi. Hơi ấm của lửa tràn khắp căn bếp nhỏ sưởi ấm tâm hồn đơn côi của hai bà cháu, sưởi ấm sự chờ mong và niềm tin vào ngày mai chiến thắng.
Tuổi thơ của tôi gắn liền với chiếc bếp lửa và bà. Tôi sống bên cạnh bà, cùng với bà nhóm lửa và trải qua nhiều gian khổ, thiếu thốn, nhọc nhằn. Nhớ lại lúc ấy, tôi không khỏi xúc động. Bọn Pháp thật là gian ác ! Chỉ vì chính sách cai trị của chúng mà cả nước, cũng như gia đình tôi bị nạn đói khủng khiếp. Gia đình thì đói mòn đói mỏi. Cả con ngựa mà cha tôi dùng để đi đánh xa chở hàng thuê cũng đói rạc, gầy đi trông thấy. Cả xóm làng điêu tàn tràn ngập trong mùi khói, khói mù mịt xóm làng. Đến giờ, khi nghĩ lại, sống mũi vẫn còn cay, nước mắt cứ chực ứa ra.
Tám năm ròng ở cùng bà, sớm sớm chiều chiều tôi đều cũng với bà nhóm bếp lửa. Bà ơi, liệu bà có nhớ, bà đã kể cho cháu nghe về những ngày lưu lạc ở Huế. Bà có nhớ bà đã dạy cháu những điều hay, lẽ phải, bà như một người cô giáo đầu tiên của cháu vậy … Lúc này, nghĩ về khi xưa, tôi cứ muốn được ở cùng với bà, muốn được như khi xưa, lớn lên trong sự chăm sóc và dạy bảo của bà. Nhờ có bà dạy cháu làm, nhờ có bà chăm cháu học mà tôi mới được như ngày hôm nay. Cứ mỗi lúc nghe được tiếng chim tu hú, tôi nghĩ thầm: “Tu hú ơi ! Tại sao cậu chẳng đến ở cùng bà ? Bà đã khó nhọc, tảo tần, tại sao cậu không đến ở cùng bà mà kêu chi hoài trên những cảnh đồng xa ?” Chưa hết, lòng tôi trỗi dậy những hoài niệm nhớ mong khi được nghe chim tu hú kêu.
Tôi đã bật khóc khi nhớ lại năm ấy, giặc càn vào đốt làng tôi cháy tàn, cháy rụi. Làng xóm, họ hàng chung quanh đã giúp tôi với bà dững lại túp lều tranh để che mưa, che nắng. Nhớ lại lúc đó, tuy thế, bà vẫn vững lòng bảo tôi:
– Bố ở chiến khu còn việc của bố cần làm. Mày có viết thư chớ kể ra những việc này, việc nọ để bố mày yên tâm làm việc, chỉ cần bảo rằng nhà vẫn bình yên vô sự, không có chuyện gì cả.
“ Chao ôi ! Bà không những là một người bà hết lòng vì mình, mà còn nghĩ đến cả bố, là một người bà có hy sinh vì con mình. Mình thật khâm phục, mình nhất định sẽ học tập bà !” – Tôi thầm nghĩ. Biết thế, tôi càng hiểu lòng bà và yêu quý bà nhiều hơn !
Hình ảnh bà tôi mái tóc bạc phơ, thân hình còm cỏi luôn đi đôi với bếp lửa rực hồng . Hình ảnh bà luôn gắn liền với hình ảnh bếp lửa. Bếp lửa do tay bà nhóm lên toả hơi ấm khắp căn lều nhỏ và suởi ấm lòng tôi, khơi dây ở tôi những tâm tình của thời thơ dại. Bếp lửa là tình bà nồng ấm, bếp lửa là tay bà chăm chút, bếp lửa gắn với những khó khăn gian khổ của đời bà, đời bà gặp nhiều nắng mưa. Ngày ngày bà vẫn giữ thói quen dậy sớm, bà nhóm lên những bếp lửa ấp iu nồng đượm, bà nhóm niềm yêu thương, nhóm khoai sắn ngọt bùi, bà nhóm nồi xôi gạo mới sẽ chung vui và nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ. Bà có biết không khi bà nhóm lên bếp lửa cũng là nhóm lên niềm vui , sự sống, niềm yêu thương chi chút dành cho cháu và mọi người, và bà cũng chính là người nhóm lửa, giử lửa, truyền lửa, truyền niềm tin , sự sống cho cháu, giúp cho cháu thấy rằng hình ảnh bếp lửa thật thiêng liêng và kỳ lạ biết bao !
Nay, tôi có những niềm vui, tình cảm và bến bờ mới. Nhưng bà ơi, dù Tổ quốc đã chấp cánh cho cháu bay vào bầu trời thênh thang của tri thức khoa học, nhưng cháu vẫn mãi không thể nào quên hình ảnh bà gắn với hình ảnh bếp lửa mà bà tôi ấp iu nhen lên mỗi sớm, mỗi chiều ở nơi quê nhà. “Sớm mai hôm này, bà đã nhóm lên bếp lửa của ngày xưa chưa ?” – Tôi tự hỏi chính mình.
Những gì là thân thiết nhât của tuổi thơ mỗi người đều có sức toả sáng, nâng đỡ con người trong suốt hành trình dài rộng của cuộc đời phải không các bạn ? Và trong tuổi thơ tôi, tôi sẽ vẫn nhớ mãi và không quên hình ảnh của chiếc bếp lửa chờn vờn, cháy bập bùng và hình ảnh của người bà thân thương đã tần tảo sớm hôm nuôi tôi, dạy tôi học. Bà là người phụ nữ Việt Nam muôn thuở với vẽ đẹp tần tảo , nhẫn nại và đầy yêu thương .Cháu sẽ mãi không quên bà!
Hi vọng với những bài văn mẫu cho đề Chuyển bài thơ “Bếp lửa” thành câu chuyện trên cũng mang đến cho các em nhiều cách giải hay. Đừng quên chia sẻ cho các bạn để học tốt hơn các em nhé!
Minh Minh